Site banner
Thứ năm, 12. Tháng 12 2024 - 14:38

Cán bộ, Hội viên, Nông dân tỉnh Bến Tre quyết tâm thực hiện phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại

Tham luận của Đoàn Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre

Trung tâm Báo chí Đại hội XIII của Đảng trân trọng gửi các cơ quan báo chí bài tham luận của đồng chí Phan Văn Mãi, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng 28/1.

“PHÁT HUY TIỀM NĂNG, LỢI THẾ CỦA VÙNG, XÂY DỰNG
 ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG,
THÍCH ỨNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU”

Đồng chí Phan Văn Mãi, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre

Kính thưa Đoàn Chủ tịch,

Kính thưa Đại hội,

Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre xin bày tỏ sự nhất trí cao với các văn kiện của Đại hội. Tại diễn đàn trọng thể này, chúng tôi trình bày tham luận với chủ đề “Phát huy tiềm năng, lợi thế của vùng, xây dựng đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu” từ thực tiễn Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), trong đó có Bến Tre, nhằm minh họa và góp phần làm rõ thêm các vấn đề về phát triển toàn diện, bền vững ĐBSCL trong bối cảnh tác động có tính toàn cầu của biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng được nêu trong các văn kiện trình Đại hội.

Kính thưa Đại hội,

ĐBSCL gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tổng diện tích 3,94 triệu héc-ta, dân số 17,5 triệu người, là trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất cả nước, hàng năm sản xuất trên 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 70% các loại trái cây; 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% lượng cá xuất khẩu cả nước... ĐBSCL là một trong những đồng bằng màu mỡ trên thế giới với các điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế cả nước. Với 1,5 triệu héc-ta đất trồng lúa, BĐSCL đóng vai trò đặc biệt quan trọng đảm bảo an ninh lương thực của Việt Nam và thế giới.

Đây còn là vùng có vị trí chiến lược về quốc phòng an ninh, với đường biên giới đất liền phía Tây Nam, đồng thời có hơn 700km bờ biển (bằng 23% cả nước), có 367 ngàn kmvùng biển và vùng đặc quyền kinh tế, giàu tiềm năng về tài nguyên vànăng lượng tái tạo. ĐBSCL còn có vị trí địa kinh tế và địa chiến lược quan trọng, do nằm trên tuyến hàng hải của trung tâm khu vực ASEAN, là cửa ngõ kết nối của các hành lang kinh tế tiểu vùng MeKong mở rộng (GMS), có nhiều lợi thế phát triển kinh tế biển, biên mậu, giao thương quốc tế…

Có thể nói, với tiềm năng to lớn và lợi thế của mình, ĐBSCL hội đủ những yếu tố cần thiết để trở thành một trong những vùng kinh tế trọng điểm của khu vực và cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các tỉnh khu vực BĐSCL phải đối mặt với nhiều khó khăn, dẫn đến tụt hậu về nhiều mặt so với khu vực phía Nam và bình quân chung cả nước. Hiện đang tồn tại nhiều “nút thắt” cản trở sự đi lên của vùng, như: Thiếu một tầm nhìn chiến lược chung cho cả khu vực; tài nguyên đất, nước và môi trường khai thác sử dụng chưa hiệu quả; số lượng và chất lượng lao động chưa đáp ứng yêu cầu; sự thay đổi về mặt nhân khẩu học, di dân ra khỏi vùng với số lượng lớn; cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, không tương xứng với tiềm năng, lợi thế vốn có của vùng và yêu cầu phát triển; nguồn lực đầu tư rất hạn chế, thiếu nền tảng thu hút đầu tư tư nhân; chậm đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất...

Bên cạnh các “nút thắt” kể trên, một trong những thách thức lớn mà ĐBSCL đang phải đối mặt là BĐKH. Nếu như Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH, thì BĐSCL là một trong những đồng bằng trên thế giới bị tác động mạnh do BĐKH và nước biển dâng. Là một châu thổ trẻ, BĐSCL rất mẫn cảm trước tác động mang tính toàn cầu của BĐKH, dẫn đến những ưu thế về điều kiện tự nhiên cho sự phát triển trước đây và hiện nay của vùng sẽ phải thay đổi. Điều dễ nhận thấy nhất là sự suy giảm về tài nguyên nước và phù sa, tình trạng mặn xâm nhập sâu và hạn hán kéo dài (năm 2016 năm 2019-2020), nước biển dâng sẽ tác động tiêu cực đến tài nguyên đất và hệ sinh thái, môi trường...

Để phát huy, khai thác hiệu quả, tiềm năng của mình, đưa ĐBSCL phát triển bền vững, cần nhận diện đầy đủ cơ hội và thách thức, nhất là phân tích, nhận diện đầy đủ những thách thức do BĐKH tác động đến quá trình phát triển của vùng, xây dựng các cơ chế chính sách, mô hình phát triển phù hợp. Điều phấn khởi là ngày 31-7-2020, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1163/QĐ-TTg “Phê duyệt Nhiệm vụ lập quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050”, quan điểm phù hợp với tầm nhìn, mục tiêu, quan điểm phát triển bền vững Vùng ĐBSCL thích ứng với BĐKH theo tinh thần Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17-11-2017 của Chính phủ là “Phát triển nông nghiệp hàng hóa chất lượng cao, giá trị kinh tế cao; ưu tiên phát triển công nghiệp xanh, khai thác hiệu quả tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo; phát triển bền vững kinh tế biển; lựa chọn mô hình tổ chức không gian, phát triển hệ thống đô thị, điểm dân cư nông thôn và kết cấu hạ tầng phù hợp với điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái, chủ động thích ứng với BĐKH và đảm bảo an toàn trước thiên tai; khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên nước... Đảm bảo liên kết tổng thể toàn vùng, tăng cường hợp tác liên kết phát triển giữa các tiểu vùng và địa phương trong vùng, giữa vùng với TP. Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam...”.

Kính thưa toàn thể đại hội,

Việc xác định phương hướng phát triển, sắp xếp không gian và phân bổ nguồn lực cho các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường có tính liên ngành, liên tỉnh và liên vùng trên cơ sở phát huy tiềm năng, thế mạnh của vùng, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhằm phát triển vùng ĐBSCL đến năm 2050 trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước theo yêu cầu tại Nghị quyết số 120 của Chính phủ là một nhiệm vụ to lớn, không chỉ giới hạn phạm vi trong vùng mà gắn với quy hoạch cấp quốc gia, đòi hỏi sự thống nhất, kết nối đồng bộ giữa các địa phương, ngành, lĩnh vực.

Trong giai đoạn phát triển 2021-2030 và các thời kỳ tiếp theo, ĐBSCL phát triển dựa trên khai thác tiềm năng, thế mạnh của kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển theo hướng đổi mới mạnh mẽ tư duy và cách tiếp cận hiện đại, phù hợp với thực tiễn, lấy tri thức khoa học - công nghệ làm nền tảng. Các giải pháp đưa ra cần có tính đột phá, khả thi cao, mang tính kết nối nội vùng và liên vùng, có sự thống nhất, kế thừa các chủ trương, chính sách, các giải pháp ứng phó với BĐKH tại vùng ĐBSCL đã được đề ra. Cụ thể:

Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, phát triển bền vững của vùng ĐBSCL được đặt trong bối cảnh BĐKH và nước biển dâng. Sự phát triển nông nghiệp sẽ tận dụng được tài nguyên sẵn có, đồng thời chủ động ứng phó với BĐKH qua việc kiểm soát nguồn nước ngọt, kiểm soát lũ. Nền nông nghiệp của vùng hiện vẫn đang nắm giữ rất nhiều sản phẩm ưa chuộng của thị trường thế giới với nhu cầu ngày càng tăng, đủ sức đáp ứng nhu cầu sản phẩm nông nghiệp giá trị cao trong nước và thế giới. Chuyển đổi sang nền kinh tế nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến có thể được xem là giải pháp khả thi và bền vững trong dài hạn. Ngoài ra, phát triển kinh tế nông nghiệp sẽ được hỗ trợ bởi các ngành kinh tế khác phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng đồng bằng, như phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp với du lịch sinh thái, trải nghiệm,…

Cùng với xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, ĐBSCL cần tập trung phát triển kinh tế biển, từ kinh tế thuỷ sản (nuôi trồng, đánh bắt, chế biến) đến phát triển năng lượng sạch, công nghiệp, vận tải, du lịch, thương mại - dịch vụ, đô thị, ... trong bối cảnh BĐKH. Trong bối cảnh đó, định hướng phát triển năng lượng tái tạo ở vùng ĐBSCL có thể xem là một chiến lược biến “nguy cơ, thách thức” của BĐKH thành cơ hội phát triển bền vững.Đây là một không gian phát triển mới của ĐBSCL cần được quan tâm đầu tư để ĐBSCL thật sự hướng ra biển và giàu lên từ biển.

Để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của vùng BĐSCL, thích ứng với BĐKH, xây dựng thành công nền nông nghiệp hiện đại và kinh tế biển phát triển bền vững,trước hết cần phải quan tâm đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống hạ tầng giao thông, cả đường thủy và đường bộ. Dù phân chia theo địa giới hành chính, song cần xem đây là một khu vực có cấu trúc tương đồng để hoạch định chính sách chung về đầu tư phát triển cho đồng bộ, nhắm đến lợi ích của toàn vùng. Hoàn chỉnh hạ tầng giao thông không chỉ có ý nghĩa về mặt vận chuyển hàng hóa, đáp ứng nhu cầu của người dân khu vực, mà còn làm tăng tính liên kết giữa các ngành, lĩnh vực và các địa phương.

Thực tế những năm qua, nhiều công trình lớn hoàn thành và đưa vào sử dụng đã phát huy hiệu quả, góp phần tích cực vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng. Đồng thời, khi hệ thống hạ tầng phát triển đồng bộ, hiện đại, đa mục tiêu, đa chức năng cùng với các tuyến giao thông huyết mạch, kết nối thông suốt hệ thống các trung tâm nông nghiệp và công nghiệp, hình thành nên chuỗi các đô thị, tạo diều kiện phát triển các dịch vụ, tạo sự liên kết chặt chẽ trong nội tại của vùng, với TP. Hồ Chí Minh, vùng Đông Nam bộ... Từ đó, mở ra những cơ hội lớn trong thu hút mạnh mẽ các nguồn lực đầu tư, “tháo gỡ” được một trong những “nút thắt” cản trở sự phát triển của ĐBSCL trong thời gian qua.

Khi xây dựng thành công nền nông nghiệp hiện đại, kinh tế biển phát triển bền vững, hoàn thiện hệ thống hạ tầng, giao thông thuận lợi sẽ góp phần tạo thêm việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp, nông thôn sang lao động kỹ thuật có tay nghề cao, dịch vụ, thương mại. Đó cũng là nền tảng cần thiết cho giáo dục phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo thêm việc làm, khắc phục hiệu quả tình trạng di dân đang diễn ra khá nghiêm trọng.

Kính thưa toàn thể đại hội,

Là một trong 13 tỉnh, thành phố của khu vực, có thể nói Bến Tre hội đủ các yếu tố đặc trưng của vùng BĐSCL, giàu tiềm năng về phát triển nông nghiệp và kinh tế biển. Đồng thời, với vị thế cù lao bao bọc bởi các con sông lớn và 65km bờ biển, sông rạch chằng chịt, tỉnh là một trong những địa phương dễ bị tổn thương trước tác động của BĐKH và nước biển dâng, minh chứng đợt mặn năm 2019-2020 xâm nhập sâu gần như bao phủ toàn tỉnh, cùng với hạn hán kéo dài, gây thiệt hại nặng nề và ảnh hưởng không chỉ sản xuất nông nghiệp, mà toàn bộ nền kinh tế, từ dịch vụ, thương mại, sản xuất công nghiệp và cuộc sống, sinh hoạt của Nhân dân do không đảm bảo cung cấp đủ nguồn nước ngọt.

Nhận thức rõ thuận lợi và khó khăn của địa phương, gắn kết trong bối cảnh chung của khu vực, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Bến Tre trong xây dựng quy hoạch, đề ra các chủ trương, chính sách, tổ chức triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội đều hướng đến mục tiêu bền vững, thích ứng với BĐKH.

Trên tinh thần các Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, trong đó có nội dung: “Thực hiện tốt Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên, môi trường biển; phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo... Đẩy mạnh phát triển và nâng cao hiệu quả các ngành kinh tế biển.Phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp và các đô thị ven biển.Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển, nhất là nhân lực chất lượng cao. Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, điều tra tài nguyên, môi trường biển; xây dựng cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, nâng cao năng lực giám sát môi trường biển, dự báo thiên tai, biến đổi khí hậu vùng biển, ven biển” và căn cứ vào tình hình thực tiễn của địa phương và vùng BĐSCL, Đại hội XI Đảng bộ tỉnh, nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra một trong các nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện là “Tập trung phát triển nông nghiệp sạch, hiệu quả là nền tảng; phát triển công nghiệp chế biến, năng lượng và xây dựng đô thị là động lực tăng trưởng... Tập trung phát triển các ngành kinh tế biển gắn với định hướng phát triển về hướng Đông, liên kết vùng và chủ động thích ứng với BĐKH. Tiếp tục đầu tư phát triển hạ tầng giao thông...”.

Từ việc đánh giá khái quát về thực trạng, tiềm năng, lợi thế của địa phương và khu vực, để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng phát triển bền vững vùng ĐBSCL nói chung và Bến Tre nói riêng, thích ứng với BĐKH, cần sự nỗ lực, quyết tâm cao của toàn vùng và sự quan tâm, hỗ trợ to lớn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ban, ngành Trung ương, sự đồng thuận ủng cao của vùng ĐBSCL và cả nước. Nhân diễn dàn trọng đại này, Đoàn Đại biểu Đảng bộ Bến Tre xin kiến nghị một số nội dung sau:

Thứ nhất, trên cơ sở Quyết định phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, bám sát chủ trương, định hướng của Chính phủ tại Nghị quyết số 120/NQ-CP, rất mong các bộ, ngành chức năng của Trung ương xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch vùng, sớm đưa vào triển khai thực hiện, tạo cơ chế chính sách để ĐBSCL phát triển bền vững, thích ứng BĐKH, trở thành một trong những trung tâm kinh tế năng động, hiệu quả cao, tương xứng với tiềm năng và vị trí địa chiến lược của vùng. Trong đó, chúng tôi đề nghị quan tâm phát triển hành lang kinh tế ven biển, mở ra không gian phát triển mới cho ĐBSCL, từ đó cấu trúc lại không gian hiện hữu để ĐBSCL thật sự là nơi đáng sống và thịnh vượng trong điều kiện BĐKH.

Thứ hai, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương cần xây dựng cơ chế, chính sách thu hút đầu tư phát triển toàn diện cơ sở hạ tầng cho vùng ĐBSCL như: hạ tầng thuỷ lợi - cấp nước, giao thông - logistics, năng lượng, hạ tầng số,... Đặc biệt, chúng tôi đề nghị có cơ chế đầu tư phát triển tuyến động lực ven biển nối TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng ĐBSCL (qua Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang), phát triển hành lang kinh tế ven biển, gắn với đảm bảo quốc phòng - an ninh và thích ứng với BĐKH và nước biển dâng.

Thứ ba, nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ xanh trong lĩnh vực khai thác biển; quan tâm định hướng, giới thiệu các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn lớn đến đầu tư, nhất là đối với các dự án thuộc lĩnh vực thủy sản, công nghiệp, phát triển đô thị ven biển, năng lượng xanh, năng lượng tái tạo, dự án bảo tồn biển kết hợp mở rộng rừng phòng hộ, đặc dụng nhằm phục hồi đa dạng sinh học biển và ven biển. Đặc biệt đối với du lịch, tập trung phát triển một số trung tâm du lịch biển điển hình trong vùng, để lựa chọn và tìm ra sản phẩm đặc trưng của mỗi địa phương, nhằm khai thác lợi thế, hình thành hệ thống kết nối, tạo động lực cho các địa phương cùng phát triển, khắc phục triệt để tình trạng “giẫm chân nhau” về sản phẩm du lịch.

Thứ tư, tăng cường đầu tư cho giáo dục ĐBSCL nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho yêu cầu phát triển của nền nông nghiệp hiện đại, kinh tế biển bền vững và các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, công nghiệp của vùng ĐBSCL trong giai đoạn phát triển mới, mạnh mẽ và bền vững hơn; thành lập các khu kinh tế – quốc phòng vùng ven biển đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng – an ninh, bảo vệ biển - đảo trong tình hình mới.

Với truyền thống đấu tranh cách mạng anh hùng, truyền thống lịch sử văn hóa được hình thành và hun đúc qua hàng thế kỷ, cộng đồng dân cư vùng ĐBSCL luôn tỏ rõ bản lĩnh, không khuất phụ, không chùn bước trước khó khăn thử thách, năng động thay đổi để thích ứng với thực tiễn, vươn lên xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trong thời kỳ phát triển mới, nhận thức rõ thời cơ và thách thức, cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, tin rằng ĐBSCL, trong đó có Bến Tre, sẽ gặt hái được những thành tựu to lớn, tương xứng với tiềm năng và lợi thế của mình. Không chỉ là vùng sản xuất nông nghiệp hiện đại, thịnh vượng, trù phú, mà còn trở thành  khu vực mạnh về biển, giàu lên từ biển, dựa vào biển và hướng ra biển, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 36-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và những chủ trương mới trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Thay mặt Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre, xin kính chúc các đồng chí đại biểu mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt!

Kính chúc Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam thành công tốt đẹp!

Nguồn: Tạp chí Xây dựng Đảng