Site banner
Thứ sáu, 29. Tháng 3 2024 - 5:29

Cán bộ, Hội viên, Nông dân tỉnh Bến Tre quyết tâm thực hiện phát triển nông nghiệp thịnh vượng, nông dân giàu có, nông thôn văn minh, hiện đại

Tuổi Sửu với danh nhân Việt Nam

Tựa như vai trò, ý nghĩa và giá trị phong phú của loài trâu, tuổi Trâu (sinh năm Sửu) thường được coi là tuổi khỏe mạnh, kiên nhẫn, đa tài và thành đạt. Phải chăng vì thế, trong số những danh nhân ảnh hưởng lớn tới tiến trình lịch sử Việt Nam, có khá nhiều vị tuổi Sửu...

TUỔI ẤT SỬU

* LÊ LỢI (1385-1433): Vị vua sáng lập triều Lê, quê Thanh Hóa. Linh hoạt, sắc sảo, giỏi võ nghệ, chí khí lớn, cuối năm 1417 xưng Bình Định vương, dấy binh chống quân Minh xâm lược. Sau 10 năm kháng chiến gian khổ, cuộc khởi nghĩa toàn thắng, giải phóng đất nước. Năm 1428, ông lên ngôi, tạo lập triều Lê, tích cực kiến thiết lại quốc gia và phát triển thể chế phong kiến trung ương tập quyền.

* CAO THẮNG (1865-1893): Danh tướng kháng Pháp, quê Hà Tĩnh. Mạnh mẽ, dũng cảm, quyết đoán và nhiệt thành yêu nước, gia nhập khởi nghĩa chống Pháp của Phan Đình Phùng, giữ chức Quản cơ. Là tướng giỏi, táo bạo, mưu lược, cầm quân làm nên nhiều chiến thắng vang dội, khiến giặc thất điên bát đảo. Ông cũng là người đầu tiên mở tại chiến khu xưởng đúc vũ khí hiện đại kiểu Tây Âu. Tháng 10 năm 1893, ông chỉ huy đội cảm tử tấn công hàng loạt tiền đồn ở Nghệ An và anh dũng hy sinh.

Danh nhân Đoàn Giỏi sinh năm Ất Sửu 1925

 * ĐOÀN GIỎI (1925-1989): Nhà văn danh tiếng, quê Tiền Giang. Hồn hậu, nghị lực, mẫn cảm, say mê văn thơ và nghệ thuật. Trước Cách mạng tháng Tám học tại Mỹ Tho, Sài Gòn và sớm viết văn, làm thơ, làm báo. Sau năm 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, phụ trách công tác tuyên huấn rồi an ninh. Năm 1954, tập kết ra Bắc, là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được bạn đọc cả nước mến mộ bởi có bút pháp tài hoa, bình dân, tự nhiên, thấm đẫm chất đồng quê và phong tục, tình người Nam Bộ (thể hiện đặc sắc nhất trong tác phẩm Đất rừng phương Nam).

TUỔI ĐINH SỬU

* BÁT NÀN (17-43): Nữ danh tướng thời Trưng Vương, quê Vĩnh Phúc. Nổi tiếng tài sắc, tinh thông võ nghệ, khi chồng bị giặc Hán vây giết, bà cầm song đao mở đường máu thoát được ra ngoài. Nặng nợ nước thù nhà, chiêu tập binh mã, phất cờ khởi nghĩa. Tháng 4 năm 40, đem quân phò giúp hai chị em Trưng Trắc-Trưng Nhị. Cứu quốc thành công, được phong làm Bát Nàn đại tướng quân Trinh thục công chúa. Đầu năm 43, nhà Hán sai Mã Viện kéo binh sang, bà kiên cường chống trả và anh dũng hy sinh.

 * NGUYỄN ĐĂNG (1577-1638): Danh sĩ thời Lê, quê Bắc Ninh. Học rất giỏi, cả bốn kỳ thi Hương, Hội, Đình và Ứng chế đều đỗ đầu, trở thành vị “Tứ nguyên” xuất sắc nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam thời xưa. Ông làm quan tới Thị lang, từng đi sứ Trung Quốc và là tác giả của nhiều bộ sách giá trị.

 * NGUYỄN HỮU THUẬN (1757-1831): Danh sĩ, nhà toán học thời Nguyễn, quê Quảng Trị. Năng động, nhạy bén, say mê toán học từ nhỏ, năm 1786 ra giúp triều Tây Sơn, làm quan đến Hữu Thị lang Bộ Hộ. Từ năm 1802, phụng sự triều Nguyễn, trải nhiều chức vị, thăng tới Thượng thư (Bộ trưởng) Bộ Lại, Bộ Hộ và từng làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Ông là tác giả của những bộ sách quý về toán học, thể chế và văn luận.

TUỔI KỶ SỬU

 * NGUYỄN TRUNG NGẠN (1289-1370): Danh sĩ thời Trần, quê Hưng Yên. Cực kỳ thông minh, hiếu học, mới 15 tuổi đã đỗ hoàng giáp, làm quan trải nhiều chức vị, thăng tới Hành khiển. Tận tụy phụng sự suốt 5 đời vua, được triều đình và nhân dân mến trọng bởi có kiến thức uyên bác cùng lối sống chính trực, thanh liêm, nhân hậu. Ông cũng để lại những công trình giá trị về luật pháp, hành chính, ngoại giao, quân sự, văn thơ.

 * ĐẶNG ĐÌNH TƯỚNG (1649-1736): Danh sĩ thời Lê-Trịnh, quê Hà Nội. Thông minh, mẫn cảm, tài đức vẹn toàn, năm 21 tuổi đỗ tiến sĩ. Gần 70 năm phò tá nhiều đời vua Lê chúa Trịnh, làm quan văn thăng tới Thái phó, quan võ thăng tới Đại tư mã, rất có uy tín và được nể trọng. Không chỉ là quốc lão đại thần danh tiếng, ông còn là nhà văn hóa lớn và để lại các công trình về luân lý, hành xử, luật lệ, ngoại giao.

 * NGUYỄN VĂN TỐ (1889-1947): Học giả cận đại, quê Hà Nội. Uyên thâm, cương trực, khảng khái, tinh thông ngôn ngữ Việt - Hán - Pháp, trước năm 1945 làm việc tại trường Viễn Đông Bác cổ Hà Nội, Hội trưởng Hội Trí tri và Hội Truyền bá Quốc ngữ. Từ Cách mạng tháng Tám, giữ chức Bộ trưởng Xã hội trong Chính phủ lâm thời, rồi Quyền Chủ tịch Quốc hội. Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), cùng Chính phủ rút lên Việt Bắc, tiếp tục chống Pháp và bị giặc tấn công, sát hại tại Bắc Kạn vào ngày 7/10/1947. Ông để lại nhiều công trình giá trị về kiến thức, văn hóa và ngôn ngữ.   

TUỔI TÂN SỬU

 * PHÙNG HƯNG (761-802): Anh hùng dân tộc, quê Hà Nội. Tính tình hào hiệp, khảng khái, có sức khỏe vô địch. Năm 789, cùng em trai nổi dậy lật đổ ách đô hộ của nhà Đường. Khởi nghĩa thắng lợi, đất nước độc lập, ông lên ngôi vua, được nhân dân kính phục suy tôn là Bố Cái Đại vương.

* LÊ HOÀN (941-1005): Vị vua sáng lập triều Tiền Lê, quê Hà Nam. Văn võ song toàn, mưu lược, quyết đoán, là Thập đạo tướng quân, thống lĩnh quân đội triều Đinh. Năm 979 làm Nhiếp chính, giúp Thái tử Đinh Toàn nhỏ tuổi vì vua Đinh Tiên Hoàng vừa bị ám sát. Tháng 8 năm 980, gấp rút phòng giặc Tống, được Thái hậu Dương Vân Nga cùng tướng sĩ đồng lòng đưa lên ngôi. Ngoài tích cực cải cách thể chế, phát triển giáo dục, bảo vệ và chấn hưng đất nước, ông còn là người Việt đầu tiên có công mở rộng bờ cõi về phía Nam.

* BÙI VIỆN (1841-1878): Danh sĩ, nhà cải cách thời Nguyễn, quê Thái Bình. Linh hoạt, hướng ngoại, năm 15 tuổi đỗ cử nhân, làm quan lập công lớn trong việc trấn áp phản loạn, khai hoang lấn biển. Cùng với nhiều sĩ phu thành lập Tân đảng, khuyến nghị triều đình cải cách mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục... Năm 1863, là quan chức Việt Nam đầu tiên đến Mỹ và được Tổng thống Abraham Lincoln tiếp kiến. Về nước, được cử phụ trách hoạt động thuế khóa, ngoại thương và chỉ huy lực lượng hải quân. Ông là nhà cải cách lớn trong lịch sử, để lại nhiều bản tường trình về đổi mới quốc kế dân sinh với nội đung rất thiết thực và tiến bộ.

TUỔI QUÝ SỬU

* NGUYỄN BỈNH ĐỨC (1493-1545): Đại thần nhà Mạc, quê Hà Nội. Nhiệt tình, công minh, ham hiểu biết, năm 21 tuổi đỗ tiến sĩ, làm quan thăng đến Thiếu sư. Am tường luật pháp, giỏi việc chính trị, đắc lực giúp vua Mạc trong việc hoạch định chính sách, bổ nhiệm, định lệ và xét xử.

Lý Tự Trọng sinh năm Quý Sửu 1913

 * LÝ TỰ TRỌNG (1913-1931): Chí sĩ cách mạng, anh hùng thanh niên, quê Hà Tĩnh. Hăng hái, gan dạ, bất khuất, năm 10 tuổi được đoàn thể đưa sang Trung Quốc học ở trường Trung Sơn. Học giỏi, thông thạo tiếng Trung và tiếng Anh, sinh hoạt sôi nổi trong Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Năm 1929, được cử về nước thiết lập Đoàn Thanh niên Cộng sản và làm giao liên cho Xứ ủy Nam Kỳ với Trung ương Đảng đặt trụ sở tại Sài Gòn. Ngày 9/2/1931, trong một buổi mít tinh, anh bắn chết thanh tra mật thám Legrand và bị bắt. Trong tù, nêu cao khí tiết, không chịu khuất phục trước những cực hình tra tấn và thủ đoạn dụ dỗ của địch. Bị kết án tử hình, anh hy sinh lúc mới 18 tuổi, nhưng trở thành một biểu tượng anh hùng bất diệt trong lòng thanh niên và nhân dân Việt Nam.

Danh nhân Huỳnh Tấn Phát sinh năm Quý Sửu 1913

 * HUỲNH TẤN PHÁT (1913-1989): Kiến trúc sư, chính khánh cách mạng, quê Bến Tre. Chân thành, bản lĩnh, giàu chí tiến thủ, thuở nhỏ học ở Sài Gòn, sau ra Hà Nội học trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương vào năm 1938 tốt nghiệp thủ khoa ngành kiến trúc. Nhiệt tình tham gia hoạt động kiến trúc, báo chí và chính trị. Năm 1946, đắc cử đại biểu Quốc hội. Sau năm 1954, hoạt động cách mạng trong nội thành Sài Gòn. Năm 1960, thoát ly ra vùng giải phóng và từ năm 1968 làm Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, trải giữ nhiều cương vị quan trọng, làm tới Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam và là người chỉ đạo thiết kế đề án xây dựng, quy hoạch các thành phố lớn. Do những đóng góp lớn lao cho dân tộc, ông được Đảng, Nhà nước Việt Nam và các nước bạn phong tặng nhiều danh hiệu, huân chương cao quý./.

       

 

Anh Hùng